Thành phố Hải Phòng

T6: 23°C
T7: 22°C
CN: 23°C
T2: 25°C
T3: 28°C
T4: 25°C
T5: 24°C

Lê Hoàn, tướng nhà Đinh thành vua nước Đại Cồ Việt


Có công lớn chống quân Tống và thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển, vua Lê Đại Hành vẫn bị sử gia xưa chê trách vì chuyện gia đình. Lễ kỷ niệm 1050 năm nước Đại Cồ Việt vừa diễn ra ở Ninh Bình. Quốc hiệu này của Việt Nam tồn tại 86 năm, kể từ khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi năm 968 đến khi vua Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu Đại Việt năm 1054, trải qua thời nhà Đinh, Tiền Lê và đầu thời Lý. Một trong những người gắn cả cuộc đời với sự tồn tại và phát triển của nước Đại Cồ Việt là Lê Hoàn.

Tướng giỏi của nhà Đinh mở đầu triều đại Tiền Lê

Lê Hoàn sinh năm 941. Có nhiều thảo luận về quê hương của ông, tuy nhiên kết luận cuối cùng chưa được đưa ra. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Hoàn người Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay). Sớm mồ côi cha mẹ, ông được người họ Lê ở làng Mía (nay thuộc xã Xuân Tân, Thọ Xuân) nhận làm con nuôi. Khi đó, người này đã nhận xét Lê Hoàn “Tư cách đứa trẻ này, người thường không sánh được”.

Đến tuổi trưởng thành, Lê Hoàn theo giúp Nam Việt vương Đinh Liễn. Tính tình phóng khoáng lại có chí lớn, ông được Đinh Bộ Lĩnh khen là “người trí dũng, chắc thế nào cũng làm được việc, bèn giao cho cai quản một nghìn quân sĩ”.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, tức Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Đến năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo. Lúc này, Lê Hoàn được làm Thập đạo tướng quân.

Năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị sát hại, Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi lên nối ngôi. Theo Lịch sử Việt Nam, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được cử làm nhiếp chính đảm đương việc nước, xưng là Phó Vương và trực tiếp dẹp tan những lực lượng chống đối trong nội bộ triều đình.

Dẹp được hiểm họa nội bộ nhưng đất nước lại đứng trước họa xâm lăng mới từ phương Bắc. Tháng 6/980, Tri Ung Châu của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thư khuyên vua Tống lựa thời cơ nước Nam đang rối ren, vua còn nhỏ, đem quân chinh phạt. Vua Tống nghe theo. Trước tình hình đó, Lê Hoàn được quân sĩ và Dương Thái hậu đồng tình tôn lên ngôi vua thay Đinh Toàn.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng và các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói rằng: Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn. Quân sĩ nghe vậy đều hô Vạn tuế. Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế”.

Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, khi ấy 39 tuổi, lên ngôi vua, tức vua Lê Đại Hành, mở đầu vương triều Tiền Lê.

Gần bốn tháng chống quân Tống

Sau khi lên ngôi, Lê Đại Hành, triều đình Hoa Lư và quân dân Đại Cồ Việt lập tức tổ chức kháng chiến chống sự xâm lược của nhà Tống. Nhưng vua Lê Đại Hành không vội vàng mang quân đi đánh ngay mà tìm cách hòa hoãn trước.

Lê Đại Hành đã hai lần sai sứ thần đem dâng sản vật, biểu cầu cho nhà Tống để xin phong vương cho Đinh Toàn nhưng những động thái này đều không được chấp nhận. Thực chất, những hành động ngoại giao của vua là nhằm tận dụng cơ hội, tránh cuộc chiến tranh và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng tiến hành một cuộc chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước.

Cuối năm 980, 30.000 quân Tống theo hai đường thủy và bộ do Hầu Nhân Bảo và Lưu Trừng chỉ huy ồ ạt tiến vào xâm lược Đại Cồ Việt. Để chặn đứng quân địch, Lê Đại Hành bố trí lực lượng dọc theo tuyến sông Bạch Đằng, Kinh Thầy cho đến vùng Lục Đầu Giang, trong đó tập trung đông nhất ở cửa sông Bạch Đằng vì đây là cửa ngõ yết hầu từ phương Bắc vào. Vua trực tiếp chỉ huy quân sĩ đánh giặc.

Tận dụng sự chủ quan, ngạo mạn của quân xâm lược và chọn thời cơ tốt, vua Lê Đại Hành đã giết được tướng giặc là Hầu Nhân Bảo, đánh đuổi cánh quân thủy của nhà Tống, khiến cánh quân bộ hốt hoảng rút lui nhưng vẫn bị truy đuổi tiêu diệt. Kết quả, cuộc chiến đấu chống Tống thắng lợi chỉ sau chưa đầy 4 tháng, từ cuối năm Canh Thìn (980) đến cuối mùa xuân năm Tân Tỵ (981).

Vị vua đầu tiên cày tịch điền

Lê Đại Hành nổi tiếng là vua coi trọng phát triển nông nghiệp. Năm 987, vua tổ chức cày tịch điền để làm gương, khuyến khích nhân dân chăm lo sản xuất nông nghiệp. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Đinh Hợi, mùa xuân, vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải, được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên ruộng là Kim Ngân”.

Sách Lịch sử Việt Nam khẳng định vua Lê Đại Hành là hoàng đế đầu tiên mở đầu cho một nghi lễ “tịch điền” mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.

Ngoài cày tịch điền, vua còn cho đào vét kênh mương, sông ngòi để thuận lợi cho việc tưới tiêu. Điều này giúp nền sản xuất nông nghiệp thời Tiền Lê đạt được nhiều tiến bộ. Bên cạnh phát triển nông nghiệp, vua Lê Đại Hành cũng chú trọng các ngành kinh tế khác cùng lĩnh vực quân sự hay ngoại giao.

Hai việc làm của vua bị sử gia xưa đánh giá không tốt

Nhận xét Lê Đại Hành ngay đầu phần Kỷ nhà LêĐại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự. Tiếc rằng không sớm chọn con nối, khiến cho con cái tranh nhau bên trong, dẫn đến mất ngôi; về đạo vợ chồng có nhiều điều đáng thẹn”.

Về chuyện vợ chồng, vua Lê Đại Hành có 5 hoàng hậu, trong đó Đại Thắng Minh Hoàng hậu (Dương Vân Nga) được phong năm 982 là đặc biệt nhất. Bà là người duy nhất làm hoàng hậu hai triều, Đinh và Tiền Lê.

Việc Dương Vân Nga là thái hậu nhà Đinh, người tôn Lê Đại Hành lên làm vua, rồi lại trở thành hoàng hậu của vua Lê bị các nhà nho và sử gia trước đây lên án gay gắt. Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm Hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sao”?

Về việc chọn con nối ngôi, sau khi lập các hoàng hậu, Lê Đại Hành lần lượt phong vương cho 11 người con trai và một người con nuôi (ông còn một người con gái) và hầu hết được cử đi trấn ở các địa điểm quan trọng.

Theo nhận định của Ngô Thì Sĩ ghi trong Đại Việt sử ký tiền biên, việc làm trên của Lê Đại Hành “có lẽ là theo lối ngày xưa, muốn nơi lớn nhỏ ràng buộc lẫn nhau, lúc nguy cấp thì cứu nhau, chống kẻ khinh rẻ mà giữ sự bền lâu, không thể thừa cơ dòm ngó”.

Tháng 3/1005, Lê Đại Hành qua đời, vương triều Tiền Lê lâm vào thế không ổn định. Long Việt, hoàng tử thứ ba được chọn là người kế vị. Hoàng tử thứ hai là Long Tích và hoàng tử thứ tư là Long Đinh nổi lên chống lại. Tình hình vô cùng rối loạn. Đại Việt sử ký toàn thư viết, các con vua “tranh nhau lên ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước không có chủ”.

Dương Tâm – Tổng hợp
Nguồn: vnexpress.net